The Girl With The Heart Of Stone (Translation) - Phần 24
Vào ngày mùng một tháng Mười một, dù tỉnh dậy đầu vẫn còn choáng váng do hậu quả của lễ hội Halloween, Marianne Engel vẫn đi thẳng xuống tầng hầm. Trong vòng hai ngày tiếp theo, bức tượng dang dở cuối cùng của cô – con sư tử/khỉ run sợ – đã được tạc một đôi chân để đứng. Khi nó hoàn thành, cô lại nằm lên một phiến đá mới và ngủ khoảng mười hai tiếng trước khi lao vào tạc một bức tượng mới. Trong lúc đó, tôi ngồi một mình trên gác với ký ức về những bóng ma nhảy múa mà lẽ ra tôi không thể thấy được.
Con quỷ lùn mới của cô (một khuôn mặt người cắm trên thân hình dị dạng của một con chim) mất bảy mươi tư giờ đồng hồ để hoàn thành, trước khi cô đi lên phòng tắm rửa một chút rồi ngấu nghiến tất cả những gì tìm được trong tủ lạnh. Tôi đã nghĩ rằng cô, như bình thường, sẽ quay trở về phòng ngủ một giấc cho lại sức, nhưng không, cô đi thẳng xuống cầu thang để nằm dài lên trên một khối đá nữa. Sau khi mơ thấy giấc mơ đá, cô lại bỏ ra hơn bảy mươi tiếng để ức chế đối tượng mới nhất của cô. Khi cô xong việc, một con cóc mặt đầy mụn cơm với cái mỏ đại bàng đang gào thét đã hiện ra.
Marianne Engel trở lại giường và ngủ rất ngon, nhưng mười tiếng sau cô đã vào bếp uống cả một bình cà phê và ăn nửa cân thịt hun khói. (Khi không phải tạc tượng, cô được phép ăn thịt.) Ngay khi vét sạch cái đĩa, cô lại bước xuống cầu thang tầng hầm. “Một con nữa đang gọi.” Khi tôi hỏi làm sao cô có thể ngủ trên đá sau khi đã uống nhiều cà phê như thế, cô đáp chẳng vấn đề gì. “Con này đã nói chuyện với tôi khi tôi đang tạc con cóc rồi.”
Dù đó mới chỉ là tuần thứ hai của tháng Mười một, Marianne Engel đã bắt đầu tạc bức tượng thứ ba trong tháng. Sự gia tăng số lượng hình như còn chưa đủ để làm tôi bực mình, giờ còn thêm cả sự thay đổi về độ tập trung nữa: cô say sưa làm việc hơn bất cứ lần nào tôi chứng kiến trước đây. Mồ hôi chảy khắp người cô, đọng lại thành dòng trên bụi đá, và cô phải mở toang những cánh cửa gỗ sồi khổng lồ để đón gió thu mát lạnh. Cô không bao giờ tắt một trăm ngọn nến đỏ cháy rực xung quanh mình và vòng lửa của chúng bập bùng trong gió như những ngọn lúa mì nhảy múa trên cánh đồng. Nhìn đám dụng cụ cứ lướt vun vút của cô, tôi không thể không nghĩ tới hình ảnh một người nông dân đang vung lưỡi hái lên trong nỗ lực chạy đua với mùa đông đang đến gần.
Khi bức tượng thứ ba hoàn thành, Marianne Engel ngay lập tức bắt tay vào làm cái tiếp theo.
Những tiếng búa đục đã dần quen thuộc đến nỗi ngôi nhà trở nên thinh lặng quá đỗi khi cô ngơi tay làm việc. Thỉnh thoảng nó – tiếng ồn ấy, không phải sự yên lặng hiếm hoi đâu – còn làm tôi lao ra khỏi nhà. Tôi không bao giờ đi đâu xa, thường chỉ trốn sau mấy góc pháo đài để nhìn những người dân đến thăm nhà thờ Romanus. Cha Shanahan sẽ đứng trên bậc thềm trước, vui vẻ mời họ vào và nài nỉ họ đến vào tuần sau. Họ đều hứa là sẽ đến, và hầu hết đều làm đúng như thế.
Shanahan có vẻ là một người khá chân thành, theo chuẩn của linh mục, dù tôi phải thừa nhận rằng mình cũng không hẳn là một người đánh giá vô tư cho lắm. Tôi luôn luôn có cảm giác phấn khích/khó chịu với bọn đàn ông mặc áo chùng: vì tôi ghét cái thể chế mà bọn họ bảo vệ. Tôi còn muốn coi thường họ trên tư cách con người nữa. Nhưng tôi thường nhận ra mình không thể ghét người, chỉ ghét cái bộ áo chùng thôi.