The Girl With The Heart Of Stone (Translation) - Phần 14
Lẽ ra tôi không nên quá ngạc nhiên khi tòa nhà đầu tiên đập vào mắt lúc chúng tôi rẽ vào đường Lemuria Drive là một nhà thờ. Nhà thờ thánh Romanus xứ Conrat là một khối kiến trúc đồ sộ cố ra vẻ đáng kính hơn thực tế. Trông nó không có vẻ bị bỏ bê, mà đúng hơn là dường như tiền đã cạn kiệt. Lớp sơn bong tróc, gạch đá sứt mẻ, và những vết nứt trên cửa sổ thì được dán lại bằng băng dính trong. Có một biển báo bên cạnh con đường bê tông hướng ra cửa chính, viết chữ đen trên nền bảng trắng rằng cha Shanahan mời tất cả mọi người đến dự lễ Mass vào ngày Chủ nhật. Phía sau nhà thờ Romanus là một khu nghĩa trang đổ nát với những phiến đá xám bạc màu nối đuôi nhau trồi lên khỏi mặt đất như những viên sủi giảm đau Alka-Seltzer rơi xuống rìa đất vậy. Cỏ héo vàng trông như mái tóc lởm chởm còn hoa tưởng niệm người quá cố thì thối rữa trên đất. Một vài tấm bia lớn hơn có tạc tượng các thiên thần đưa người đã khuất lên Thiên đường. Tôi hỏi Marianne Engel có tạc bức tượng nào ở đây không. Không, cô nói, cô không chế tác những công trình kiểu ấy.
Ngôi nhà của cô, ở lô đất tiếp theo nhìn từ phía nhà thờ thánh Romanus, thực sự trông giống một pháo đài hơn: một thành trì bằng đá vĩ đại khiến người ta không khỏi nghĩ nó có thể chống chọi cả một cuộc vây ráp của quân Hung Nô. Cô có thể thấy rõ mặt tôi thộn ra thế nào trước sự kiên cố đó, nên đã giải thích ngay rằng cô không thể tưởng tượng được việc phải sống trong một tòa nhà không thể đương đầu với dòng chảy thời gian.
Khi cô giúp tôi ra khỏi xe, tôi hỏi liệu cô có thấy sợ khi sống cạnh một nghĩa trang không. Cô chỉ nhún vai và nhắc tôi để ý những phiến đá lát đường vì vài viên đã long ra. Cô lầm bầm giải thích về cái cây vươn lên trên chiếc xe cút kít như một chậu cây cảnh, bánh trước gỉ sét của nó ngập trong đất mùn. Một hòm thư được cấu tạo sao cho thư được nhét vào cái miệng há hốc của một con rồng.
Ở hông nhà là hai cánh cửa gỗ sồi to tướng với bản lề bằng thép nặng trịch mở lối xuống xưởng chế tác dưới tầng hầm, được lắp đặt đặc biệt để những tảng đá tạc tượng có thể lọt qua. “Cải tiến được nhiều như thế này là nhờ vào việc giảm thuế. Nhân tiện, đó là những gì Jack nói với tôi.” NGƯƠI VẪN CHƯA QUÊN CHUYỆN CỦA JACK, ĐÚNG KHÔNG?
Một con chó màu nâu sữa chạy ra từ sân sau, con Bougatsa nổi tiếng đây mà. Marianne Engel cúi xuống xoa xoa cái đầu to bự ngu ngốc của nó, kéo tai nó ra sau. “Boogie!” Chỉ cần mất một giây là có thể xác định ngay con cẩu này đã củng cố tất cả những gì tôi ghét về loài chó. Nó trông đần độn theo đúng kiểu của chó, cái lưỡi lờ đờ liếm hết bên này đến bên khác, cái đầu lúc lắc xung quanh như một vũ nữ Hawaii bằng nhựa õng ẹo ngồi trên bảng điều khiển xe ô tô của một tay ma cô.
TA CƯỢC RẰNG JACK LÀ MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG BÌNH THƯỜNG. CÓ NHIỀU THỨ ĐẦY HỨA HẸN.
“Chúng ta hát cho chàng trai dễ thương này một bài nhé?” Marianne Engel rên lên như một dã nhân chân to rít thuốc hết điếu này đến điếu khác, và Bougatsa hùa vào, cố bắt chước. Tôi đã biết rõ là cô hát rất hay, thế nên rõ ràng cô chỉ hát kiểu này để chơi với con cún của mình thôi. Giờ đây tai tôi chỉ còn là mấy mẩu thịt be bé, từa tựa như quả mơ khô nhú ra từ cái đầu đặc kín bé tí thôi. Tai phải hầu như đã điếc hẳn nhưng tai trái vẫn còn đủ thính để nhận ra những âm thanh ấy khủng khiếp đến mức nào. Hai cái đầu nghiêng ngả khiến người ta nghĩ rằng hai kẻ chủ tớ đang tưởng tượng ra những nốt thăng lượn lờ trên đầu mình, chờ họ nhảy lên vồ lấy. Họ trượt. Chẳng có gì ngạc nhiên khi Marianne Engel lại sống cạnh một nghĩa trang: ngoài người chết ra còn ai có thể chịu nổi cô cơ chứ?